BỆNH HỌC

 

NHIỄM ĐỘC DA DỊ ỨNG THUỐC
 
ĐẠI CƯƠNG
Nhiễm độc da dị ứng do thuốc là những biểu hiện rất thường gặp, là một dạng phản ứng dị ứng đặc biệt. Thông thường, người bệnh sẽ không có phản ứng dị ứng với một thuốc khi sử dụng lần đầu. Thay vào đó, sau một vài lần sử dụng, hệ miễn dịch sẽ trở nên mẫn cảm và khi bắt gặp thuốc đó trong cơ thể, nó có thể nhanh chóng phát hiện và sản sinh ra kháng thể immunoglobulin E (IgE). Kháng thể này khởi động quá trình giải phóng các hóa chất gây viêm, như histamin, gây triệu chứng dị ứng.
Biểu hiện lâm sàng của nhiễm độc da dị ứng thuốc rất đa dạng, không phải lúc nào cũng nhẹ vì có thể gây chết người như sốc phản vệ hay các hội chứng Stevens- Johnson và Lyell. Sự đa dạng của phản ứng da này phụ thuộc nhiều cơ chế: sự tích lũy, tác dụng phụ, tác dụng dược lực học, sự bất thường sinh học (như khiếm khuyết men G6PD), và nhất là phản ứng miễn dịch dị ứng.
Dị ứng thuốc chiếm một phần không đáng kể trong số các phản ứng bất lợi của thuốc, chiếm chưa đến 10% số trường hợp phản ứng thuốc khiến người bệnh phải đi khám hoặc nằm viện, nhưng là vấn đề nguy hiểm khó lường, thường gây ra tai biến cấp tính, nghiêm trọng dễ dẫn đến tử vong nhất cho bệnh nhân.
 
DỊCH TỄ HỌC
Phản ứng thuốc khá thường gặp chiếm khoảng 2-3% số bệnh nhân điều trị nôi trú.
Cơ cấu các dạng: 45% hồng ban; 23% mề đai, phù mạch; 5,4% hồng ban sắc tố cố định tái phát, 4% hội chứng Stevens-Johnson, 3% nhạy cảm sáng.
Xảy ra ở mọi lứa tuổi, thường xảy ra ở người lớn tuổi (nhất là phụ nữ) do chuyển hóa thuốc giảm, chậm đào thải.
Triệu chứng lâm sàng rất đa dạng, thường là phản ứng nhẹ, kèm theo ngứa. Triệu chứng giảm nhanh sau khi ngưng thuốc. Tuy nhiên, có thể nặng, đe dọa tính mạng bệnh nhân, khó tiên đoán.
Chẩn đoán chủ yếu dựa vào lâm sàng, tiền sử và bệnh sử. Chẩn đoán nguyên nhân thường khó vì bệnh nhân thường dùng nhiều thứ thuốc một lúc hoặc không biết mình đã uống thuốc gì.
 
LÂM SÀNG
 
1. Sốc phản vệ (anaphylactic shock)
Là hội chứng quá mẫn cấp tính, có thể dẫn đến tử vong. Các triệu chứng có thể xuất hiện ngay từ những giây đầu tiên khi cơ thể tiếp xúc với thuốc hoặc sau vài chục phút. Tốc độ sốc càng nhanh tiên lượng càng xấu
Triệu chứng lo lắng, bồn chồn, khó thở, vã mồ hôi, nổi mày đay. Các biến chứng muộn của sốc phản vệ: viêm cơ tim, viêm thận… có thể dẫn đến tử vong.
Thường gặp do kháng sinh họ b-lactamin, đặc biệt là penicillin, huyết thanh, các thuốc tê, thuốc gây mê, thuốc cản quang, NSAIDs, vitamin.
 
2. Hen phế quản (asthma)
Xuất hiện ngay sau khi tiếp xúc hoặc dùng thuốc vài giây đến vài phút. Bệnh nhân có cảm giác nghẹt thở hoặc khó thở thì thở ra, thở khò khè. Nghe phổi đầy ran rít, ran ngáy.
Bệnh thường liên quan đến yếu tố nghề nghiệp do thường xuyên tiếp xúc với thuốc như: công nghiệp dược, nhân viên y tế…
Các thuốc gây hen phế quản: penicillin, ampicillin, spiramycin, sulphamid, ACTH, và một số thuốc trong nhóm NSAIDs, đặc biệt là aspirin cũng gây cơn hen phế quản.
 
3. Phát ban dạng dát sẩn (exanthèmes maculo-papuleux)
Thường gặp nhất. Thời gian xuất hiện sau dùng thuốc thường khoảng 1 tuần và tồn tại đến một vài tuần.
Ban đỏ dạng dát, sẩn là dạng ban dát hay hồng ban, biến mất dưới kính đè hoặc ban dạng sởi, kích thước thay đổi, thường đối xứng, có thể kết hợp thành mảng, thường ngứa trung bình hay nặng, kèm theo sốt. Có thể kèm theo mề đay hoặc các dạng lâm sàng dị ứng thuốc khác.
Vị trí thường ở thân mình, vùng tì đè hoặc chấn thương, lòng bàn tay, lòng bàn chân.
Những  thuốc hay gây dị ứng dạng này là: ampicillin, amoxycillin, cotrimoxazole, carbamazepine, cefaclor.
 
4. Viêm da dị ứng (allergic dermatitis)
Thời gian xuất hiện triệu chứng lâm sàng ít nhất là 5 ngày giữa lần tiếp xúc đầu tiên và lần thứ 2 với thuốc.
Triệu chứng: khởi đầu là những sẩn phù màu đỏ, trên nền ban đỏ là các mụn nước nhỏ li ti bằng đầu đinh ghim tập trung thành từng đám, tiết dịch, ngứa dữ dội.
Nguyên nhân chủ yếu do dùng thuốc tê tại chỗ, thuốc kháng histamin, thuốc sát khuẩn, thuốc bôi tại chỗ, các kháng sinh: bacitracin, penicillin, ampicillin, chloramphenicol, streptomycin, neomycin, sulphamid, thuốc phiện, isoniazid…
 
5. Viêm mạch dị ứng (allergic vasculitis)
Gồm hai thể:
Viêm mạch xuất huyết (purpuric vasculitis): thương tổn cơ bản là sự thâm nhiễm, các chấm, nốt xuất huyết dạng sẩn, đối xứng ở hai chân, hai tay.
Viêm mạch hoại tử (necrotic vasculitis): các sẩn xuất huyết cùng tồn tại với mụn nước, mụn mủ hoặc những thương tổn hoại tử.
Các thuốc hay gặp: kháng sinh họ b - lactam, họ cyclin, sulphamid, allopurinol, isoniazid, muối vàng…
 
6. Mề đay và phù Quincke
Mề đay (urticaria)
Mề đay là một phản ứng mạch máu của da, là một biểu hiện lâm sàng nhẹ của dị ứng thuốc, mề đay thường xuất hiện sớm sau dùng thuốc vài phút nhưng cũng có thể lâu hơn. Có thể bị bất kỳ vị trí nào của cơ thể.
Tổn thương là sẩn hay mảng, ngứa dữ dội, có cảm giác như ong chích. Sau đó, trên những vùng da này xuất hiện các sẩn phù màu hồng, nổi gờ lên trên bề mặt da, kích thước to nhỏ khác nhau từ vài milimet đến vài chục centimet. Hình dáng đa dạng: hình tròn, hình nhẫn, hình bản đồ, vết lằn,… có thể đơn độc, có thể kết thành đám rộng. Ngứa luôn luôn có và là nguyên nhân gây cảm giác khó chịu nhất cho người bệnh. Những vùng da chắc như đầu, lòng bàn chân, bàn tay, người bệnh có cảm giác đau nhức. Kèm theo ban mề đay, người bệnh có thể khó thở, đau bụng, buồn nôn, đau khớp, có thể sốt.
Nhiều thuốc gây tình trạng mề đay, thường gặp là kháng sinh, NSAIDs, vaccin, huyết thanh,…
 
Phù Quincke (quincke oedema)
Phù quincke có thể xuất hiện sau dùng thuốc vài phút, vài giờ, tiến triển trong vòng vài giờ rồi thoái lui trong vòng vài giờ, cũng có thể tiến triển thành nhiều đợt dai dẳng.
Triệu chứng thường gặp là những đám sưng nề, sưng phù to ở môi mặt, hai mí mắt híp lại. Màu sắc có thể hơi hồng hoặc hơi tái nhưng cũng có thể bình thường như những vùng da khác. Cảm giác căng da, đau nhức và có thể ngứa.
Vị trí thường gặp ở những vùng da lỏng lẻo, đặc biệt những vùng niêm mạc và bán niêm mạc như tổ chức quanh mắt, môi, lòng bàn tay, bàn chân… Ngoài ra còn hay gặp ở vị trí đặc biệt:
- Đường hô hấp: phù thanh quản gây khó thở, nghẹn, mất tiếng.
- Đường tiêu hoá: ở thực quản, dạ dày, ruột… gây đau bụng, buồn nôn, nôn.
- Não: gây nhức nửa đầu, động kinh, liệt, lồi mắt.
- Tử cung: gây đau bụng, ra máu âm đạo.
Thuốc có thể gây phù quincke như: kháng sinh (penicillin, ampicillin, streptomycine, tetracyclin, sulphamid…); NSAIDs (salicylic, indomethacine, aspirin, paracetamol…); các thuốc khác: heparin, ACTH, insulin, bacbituric…
 
8. Hoại tử thượng bì nhiễm độc (toxic epidermal necrolysis hay hội chứng Lyell)
Hoại tử thượng bì nhiễm độc còn gọi là hội chứng Lyell. Đây là thể dị ứng thuốc nặng nhất, gây tử vong cao nhất do tình trạng hoại tử thượng bì lan toả cấp tính và nhiễm độc, giống tình trạng bỏng nặng. Bệnh xuất hiện vài giờ đến một hai tuần sau dùng thuốc
Triệu chứng của người bệnh bị hội chứng Lyell là rất mệt mỏi, sốt cao, rét run và trên da xuất hiện các bọng nước khổng lồ trên nền da hoại tử màu đỏ sẫm. Các thương tổn nhanh chóng lan rộng khắp cơ thể với lớp thượng bì bị trợt, bị xé rách giống như bị bỏng rộng. Diện tích bọng nước chiếm hơn 30% diện tích da của cơ thể. Kèm theo có viêm loét hoại tử hầu hết niêm mạc các hốc tự nhiên, tổn thương nội tạng nặng nề càng làm cho tình trạng bệnh thêm nguy kịch. Người bệnh có thể tử vong do rối loạn nước điện giải, rối loạn chuyển hoá, nhiễm độc, nhiễm trùng.
Thuốc có thể gây hội chứng Lyell: allopurinol, ampicillin, amoxycillin, carbamazepine, phenytoin, lamotrigine, nevirapine, barbiturate, sulfonamide, cephalosporin và NSAIDs.
 
9. Hội chứng Stevens- Johnson (Stevens- Johnson syndrome)
Thương tổn cơ bản chủ yếu là các dát xuất huyết hoại tử nhiều kích cỡ kèm theo có thể có mụn nước, bọng nước và viêm loét hoại tử vùng niêm mạc – da các hốc tự nhiên. Triệu chứng toàn thân gồm sốt cao, mệt mỏi, có thể đau bụng, buồn nôn, nôn, xuất huyết tiêu hoá, tổn thương gan, thận, toàn trạng rất nặng.
Các thuốc thường gây hội chứng Stevens- Johnson như NSAIDs, sulphamid chậm, chống động kinh, sốt rét, allopurinol, kháng vius, hydantoin, kháng lao…        
 
10. Ban cố định nhiễm sắc (fixed drug eruptions, erythème pigmenté fixe)
Thường xuất hiện sau vài giờ hay vài ngày uống thuốc.
Triệu chứng: sốt nhẹ, mệt mỏi. Trên một hay nhiều vùng da của cơ thể xuất hiện một hay nhiều dát màu đỏ thẫm, thường có hình tròn, hoặc bầu dục, giới hạn rõ, đường kính từ một đến vài centimet. Trên bề mặt ban đỏ này có thể có bọng nước, dễ bị vỡ, loét. Có thể trở thành sẩn phù màu tím hơi đen. Lúc đầu ngứa.
Vị trí thuờng gặp ở tứ chi, đặc biệt ở môi, bộ phận sinh dục (thường là các vị trí liên kết da – niêm mạc).
Ban nhiễm sắc này dễ dàng xuất hiện tại những vị trí cũ và có thể xuất hiện thêm một số vị trí mới nếu vẫn dùng lặp lại thuốc đã gây dị ứng.
Thuốc: đôi khi không rõ loại, đa số thuốc là thuốc hạ nhiệt, barbiturique, phenolphtaleine, sulfamide, tetracycline.
 
11. Hồng ban đa dạng (erythème polymorphe)
Tổn thương có tính chất viêm, cấp tính.
Triệu chứng: thường có 2 dạng là hồng ban dát sẩn hoặc mụn nước, bóng nước. Tổn thương gồm có: mụn nước, bóng nước, ban xuất huyết. Tổn thương đặc hiệu: là các ban hình bia bắn điển hình có ba vòng tròn đồng tâm: ngoài cùng là vòng ban đỏ, tiếp trong là sẩn đỏ thẫm phù nề , ở giữa là lõm và có màu xanh tím, mụn nước nhỏ hoặc vỡ, trợt, hoại tử - hình ảnh này được gọi là mụn rộp đồng tử (herpes iris). Tổn thương thường không ngứa nhưng có cảm giác rát, phỏng.
Vị trí thường đối xứng, ở mặt duỗi tứ chi như khuỷu, đầu gối, cổ tay, bàn tay, lòng bàn tay it khi bị.
Nguyên nhân do thuốc như: allopurinol, carbamazepine, phenytoin, NSAIDs, sulfonamide và tetracyclin.
 
12. Ban toàn thân tróc vẩy (exfolitive dermatitis)
Viêm da tróc vảy thường xuất hiện sau dùng thuốc khoảng 1 tuần và tồn tại trong 3 – 4 tuần. Bệnh có thể tiến triển nặng nề và có thể đe doạ đến tính mạng.
Triệu chứng là hồng ban sưng phù, lan tràn toàn thân rất nhanh và thường có những triệu chứng ngộ độc kèm theo. Da trở nên đỏ, sưng phù và có thể tiết dịch. Sự tróc vẩy được biểu hiện rõ sau vài ngày. Kết mạc và niêm mạc đường hô hấp trên có thể bị ảnh hưởng do sự tróc vẩy. Ngứa là triệu chứng rất thường gặp. Bệnh nhân thường có triệu chứng ớn lạnh do không có khả năng co mạch máu ngoài da. Nếu không điều trị, nhiễm trùng thứ phát có thể xảy ra.
Nhiều loại thuốc có thể gây ra đỏ da toàn thân. Rất khó có thể xác định được nguyên nhân gây bệnh vì không có thử nghiệm cận lâm sàng, còn thử nghiệm gây ra phản ứng lại thì có chống chỉ định. Thuốc thường gây ra bệnh là: barbituriques, sulfamides, kháng sốt rét tổng hợp.
 
13. Chứng mất bạch cầu hạt (agranulocytosis)
Là chứng hay gặp nhất trong các tổn thương cơ quan tạo máu do dị ứng thuốc.
Người bệnh đột ngột sốt cao, toàn trạng suy sụp nhanh chóng, loét niêm mạc các hốc tự nhiên như miệng, mũi họng, bộ phận sinh dục, viêm phổi, viêm tắc tĩnh mạch, nhiễm trùng huyết dễ đi đến tử vong.
Thuốc có thể gây chứng mất bạch cầu hạt: penicillin, tetracyclin, biomycin, syntomycin, sulphamid, analgin, salicylic, amidopyrin, aminazin, kháng lao.
 
14. Bệnh huyết thanh (serum sickness)
Bệnh thường xuất hiện từ ngày thứ 2 đến ngày thứ 14 sau dùng thuốc. Người bệnh chán ăn, mệt mỏi, mất ngủ, sưng đau các khớp, sưng đau nhiều hạch, sốt cao, nổi mề đay, gan to, phù thận, albumin niệu…
Nguyên nhân chủ yếu do tiêm huyết thanh: chống uốn ván, chống bạch hầu hoặc chống độc tố…, ACTH, insulin và một số kháng sinh như penicillin, ampicillin, sulphamid, kháng lao… cũng có thể gây bệnh huyết thanh.
 
15. Chàm (eczema)
Thuốc gây ra phát ban dạng chàm thì rất nhiều, một vài loại có thể được gợi ý như penicilline, streptomycine, sulfamides, kháng sốt rét,… và nhất là kháng histamin.
 
16. Ban xuất huyết
Có thể là dạng bầm máu (ecchymose) hay điểm xuất huyết (petechie)
Tiểu cầu thường giảm, dấu hiệu Lacet (+), thời gian chảy máu tăng, tìm kháng thể kháng tiểu cầu.
Thuốc có thể gây ra: ACTH, allopurinol, barbituriques, chloroform, chlorothiazide, corticosteroides, coumarin, penicilline, quinidine, sulfamides.
 
17. Mụn trứng cá (acnes)
Nguyên nhân thường gây ban mụn trứng cá là do sử dụng thuốc corticoides. Tổn thương có tính đơn dạng: sẩn nang lông chắc, nhỏ, có thể có mụn mủ.
Vị trí thường gặp nơi tăng tiết bã, ngoài ra còn hay gặp ở cổ, chi trên, do:    
Bôi tại chỗ: dosử dụng lâu dài những sản phẩm có chứa corticoides sẽ gây ra sự thay đổi ngoài da như: teo da (atrophy), vết rạn (vergeture), ban xuất huyết, dãn mạch, giảm sắc tố.
Tiêm dưới da: da bị teo lại, dãn mạch, lõm xuống và mất sắc tố. Bệnh nhân không bị đau nhưng gây mất thẩm mỹ.
Uống Corticoides: ban xuất huyết, Cushing, vết rạn, da trở nên mỏng và dòn, rậm lông, tăng huyết áp, cườm mắt, loãng xương… thì mụn trứng cá   cũng là một biểu hiện thường gặp.          
   
18. Thay đổi sắc tố da (pigmentation changes)
Thay sắc tố của da do thuốc bằng nhiều cơ chế khác nhau:
- Kích thích hoạt tính của hắc tố bào gây tăng sắc tố như vàng, bạc, bismuth, thủy ngân.
- Thuốc sốt rét gây vàng da hay xạm đen.
- Thạch tín vô cơ tạo những sắc tố lan tỏa.
- Zidovudine làm tăng sắc tố da và móng.
Sự tăng sắc tố có còn do sự nhạy cảm ánh sáng (photoallergic dermatitis). Thuốc gây nhạy cảm ánh sáng như: sốt rét tổng hợp, phenothiazine, sulfamides, hydantoine, thuốc ngừa thai, psoralene, minocyline, tetracyline.
 
19. Hồng ban nút (erythema nodosum)
Bệnh thường xuất hiện vài ngày sau dùng thuốc, với 3 triệu chứng chính: sốt, đau khớp và xuất hiện nhiều nút to bằng quả táo nhỏ, nổi lên trên mặt da nhẵn và đỏ, ấn đau, vị trí giữa trung bì và hạ bì. Các nút thường khu trú ở tứ chi, ít khi có ở mặt, thân người. Bệnh thoái triển sau một vài tuần, màu sắc lúc đầu đỏ, sau chuyển màu thành tím, xanh, vàng... như tiến triển của một u máu.
Các thuốc có thể gây hồng ban nút: các kháng sinh penicillin, ampicillin, streptomycin đặc biệt là sulphamid, iodid, bromid.
 
20. Teo và xơ teo (atropy and scares)
Tổn thương tại chỗ do tiêm: corticoides, insuline, vitamin K1
Tổn thương toàn thân: bêta bloquants, lithium.
 
21. Phát ban dạng vẩy nến, lichen
Một vài loại thuốc có thể làm khởi phát hoặc làm nặng thêm bệnh vẩy nến như thuốc chống viêm không steroides, lithium,…do làm giảm hoạt tính của adenylcyclase và làm nặng thêm sự mất thăng bằng của nucleotides vòng ở lớp thượng bì vẩy nến.
Ban dạng lichen (lichenoid eruptions): tổn thương ngoài da giống lichen phẳng: sẩn màu hơi tím, phẳng, trên đó có các rãnh, khía...tổn thương có thể liên kết thành mảng lớn. Các thuốc hay gây nên: chẹn beta, ức chế men chuyển, sốt rét, frusemide, thiazide, chlorpropamide, methyldopa, phenothiazine và quinidine.
 
22. Da nhạy cảm ánh sáng (Photosensitivity)
Khi dùng một số loại thuốc thường là các loại như NSAIDs, ciprofloxacin, nalidixic acid, phenothiazine, tetracycline, griseofulvin, amiodarone, sulfonamide and thiazide thì da trở nên tăng nhạy cảm với ánh sáng và bị tổn thương như: đỏ da giống bỏng, xạm da, đen da hoặc mất sắc tố da vv… Vị trí ở các vùng da hở như: mặt, cổ, mu bàn tay, mu bàn chân. Mức độ tổn thương phụ thuộc vào liều thuốc sử dụng và thời gian tiếp xúc với ánh nắng.
 
23. Một số phát ban đặc biệt
Ban brôm
Brom có trong thuốc ho, an thần, chống ngứa. Thường hay gặp ở trẻ em.
Triệu chứng: phát ban đa dạng như mụn trứng cá, mề đay, hồng ban, mụn mủ, tăng sản thượng bì (ban brôm sùi), loét , làm mủ (rất đau và có mùi hôi thối). Có thể có những nốt màu tím, dễ chẩn đoán lầm với u bạch huyết ác tính ngoài da. Có những mảng viêm dày và có nhiều mụn mủ ở bờ tương tự như nấm blastomycosis. Xét nghiệm brom trong huyết tương.
Vị trí: khắp nơi, mặt, cẳng chân, mông.
Điều trị: ngưng thuốc có chất brôm, uống 2-4g NaCl hàng ngày.
 
Ban iode (iododerma)
Có trong thuốc điều trị bướu cổ, cản quang, suyễn, xơ cứng động mạch.
Triệu chứng: ói mửa, chảy nước mắt, nước mũi, buồn nôn. Phát ban đa dạng mụn trứng cá, mụn mủ nang lông cấp tính bao quanh là vùng xung huyết; bóng nước dẫn đến loét và đóng vảy; nốt sùi hay dạng nấm (hay chẩn đoán nhầm với lymphoma ác tính hoặc ung thu tế bào đáy; ban xuất huyết, hồng ban đa dạng, hồng ban nút có thể gặp. Ngứa.
Vị trí thường hay gặp ở vùng tiếp xúc với ánh sáng như cổ, mặt, tay, nếp gấp, niêm mạc (miệng, sinh dục).
 
Nhiễm Arsenic
Cấp tính:
Do sự tăng nhạy cảm, có thể xảy ra trong một thời gian ngắn với một liều rất thấp.
Triệu chứng: đau bụng, tiêu chảy, đau tứ chi, sốt, phù (mi mắt, bàn tay và bàn chân); Da xuất hiện hồng ban sẩn, mụn mủ, ban bóng nước, hồng ban đa dạng.
Lâu lành bệnh, da tróc thành mảng to, đôi khi để lại các đốm tăng sắc tố. Tử vong rất cao khi có tổn thương phổi, thận.
Mãn tính:
Do dùng liều nhỏ thời gian sử dụng kéo dài gây tổn thương da vĩnh viễn dù ngưng thuốc. Thuốc gây nên là: thuốc viên Asiatic, dung dịch Fowler để điều trị vẩy nến, động kinh, suyễn, sốt cao, viêm da; hay uống nước có lượng lớn Arsenic; thợ thuyền làm trong xí nghiệp phân bón, thuốc diệt côn trùng.
Triệu chứng là hồng ban dạng Pellagre, dạng vẩy nến, tổn thương móng với những sọc ngang (không đặc hiệu). Triệu chứng đặc hiệu hơn như: tăng sắc tố ở da với những dát giảm sắc tố rải rác ở thân mình giống như giọt mưa rơi. Triệu chứng đặc hiệu: dày sừng arsenic (arsenical keratoses) chủ yếu ở lòng bàn tay, lòng bàn chân nhưng có thể gặp ở vị trí khác. Triệu chứng khác: ung thư do thạch tín (carcinoma arsenic) có thể có ở ống tiêu hóa, thanh quản, niệu sinh dục.
Chẩn đoán xác định: tìm thạch tín trong nước tiểu, tóc, móng. Bình thường trong nước tiểu có 0,005-0,04 mg/ngày, trong ngộ độc cấp hoặc bán cấp: 0,1mg/ngày. Bình thường trong tóc có 0,008-0,025 mg/100g, bệnh lý: 0,1mg.
 
NGUYÊN TẮC ĐIỀU TRỊ CHUNG
Ngưng tất cả những thuốc nghi ngờ là tác nhân gây bệnh.
Xử trí các vấn đề có liên quan đến toàn thân, nếu có sốc phải xử trí ngay.
Kháng sinh chống nhiễm trùng tại chỗ hay toàn thân.
Bù nước và điện giải
Vitamin C liều cao cần thiết cho mọi trường hợp.
Dùng kháng histamin uống nếu ngứa nhiều.
Corticoides trong trường hợp nặng.
 
ThS. BS. Lương Trường Sơn.
 
 
 

 





Facebook
Email: dalieudongdieu@gmail.com
dalieuvietnam@gmail.com

Sơ Đồ Đường Đi

Tìm Kiếm

TỪ ĐIỂN

TÌM HIỂU DA CỦA BẠN

Liên Kết Website



BỘ Y TẾ
BỘ Y TẾ - CỤC Y TẾ DỰ PHÒNG
BV Da liễu trung ương Quy Hòa
BV Da liễu TP.HCM
BV Da liễu Trung Ương
Viện sốt rét - ký sinh trùng - côn trùng TP.HCM
Viện sốt rét - ký sinh trùng - côn trùng Quy Nhơn
Viện sốt rét - ký sinh trùng - côn trùng Trung Ương

Quảng Cáo

Liên Hệ: 0913.407.557
Quảng cáo
Quảng cáo

FACEBOOK

Số Lượng Truy Cập