BỆNH HỌC

BỆNH GHẺ

(scabies, gale)

Đại cương

Bệnh ghẻ là bệnh ngoài da phổ biến, bệnh lây, do một loại côn trùng ký sinh trên da gây nên, có tên là Sarcoptes scabiei, Hominis (cái ghẻ), có nơi còn gọi là con mạt ngứa (itch mite),  thường hay gặp vào mùa xuân – hè. Bệnh do ghẻ cái gây nên, ghẻ đực không gây bệnh vì chết sau khi giao hợp.

Nhiễm bệnh ghẻ được phát hiện phổ biến và lưu hành khá rộng rãi ở khắp nơi trên toàn cầu. Khoảng 300 triệu trường hợp trên toàn thế giới bị ghẻ mỗi năm.

Bệnh ghẻ lây do nằm chung gi­ường, mặc quần áo chung, lây qua tiếp xúc da khi quan hệ tình dục… Bất kỳ ai, dân tộc nào, nam hay nữ, già hay trẻ cũng có thể mắc bệnh ghẻ. Hầu hết sự lây truyền bệnh ghẻ xảy ra mang tính chất gia đình vì nếu một thành viên trong nhà bị bệnh ghẻ thì khả năng những người khác trong gia đình sẽ dễ mắc bệnh theo.

Những nước kém phát triển, điều kiện dinh dưỡng và vệ sinh kém, bệnh có thể lây thành dịch ở các đơn vị tập thể như ở các đơn vị tân binh mới nhập ngũ, trại giam, vùng dân c­ư đông đúc, nhà ở chật hẹp, thiếu vệ sinh.

Đặc điểm Cái ghẻ và lịch sử

Bệnh ghẻ tồn tại hơn 2500 năm, từ thời La Mã cổ đại. Thời đó, người La Mã sử dụng thuật ngữ bệnh ghẻ để ám chỉ bất kỳ bệnh da nào gây ngứa. Mãi đến thế kỷ 17, Giovanni Cosimo Bonomo mới tìm ra côn trùng Sarcoptes scabiei là nguyên nhân của bệnh ghẻ. Các tên Sarcoptes scabiei bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: sarx (the flesh) có nghĩa là thịt, koptein (to smite or cut) có nghĩa là dập nát hoặc cắt và từ scabere (to scratch) có nghĩa là xây xước. Chỉ có ghẻ cái mới gây bệnh.

Cái ghẻ hình bầu dục, kích thư­ớc khoảng 0,25 mm đ­ường kính (mắt thường có thể thấy như­ một điểm trắng di động), có 8 chân, 2 đôi chân trư­ớc có ống giác, 2 đôi chân sau có lông tơ, đầu có vòi để hút thức ăn. Chu kỳ toàn bộ cuộc sống cái ghẻ kéo dài 30 ngày nếu cư trú ở thượng bì. Ghẻ cái ký sinh ở  lớp sừng của thư­ợng bì, đào hang về ban đêm, đẻ trứng về ban ngày, mỗi ngày ghẻ cái đẻ 1-5 trứng, 72-96 giờ nở thành ấu trùng, sau 5-6 lần lột xác (trong vòng 20-25 ngày) trở thành cái ghẻ tr­ưởng thành, sau đó bò ra khỏi hang, giao hợp và tiếp tục đào hầm, đẻ trứng mới. Khoảng <10% kết quả trứng đậu thành cái ghẻ trưởng thành.

Cái ghẻ di chuyển qua các lớp trên cùng của da bằng cách tiết enzyme proteases để làm suy giảm tầng lớp sừng. Chúng ăn các mô bị phân hủy nhưng không ăn máu. Chúng đi du lịch thông qua các lớp biểu bì, tạo ra các tổn thương hang và để lại sau phân của chúng.  

Ghẻ cái sinh sôi nảy nở rất nhanh, trong điều kiện thuận lợi một con ghẻ cái, sau 3 tháng có thể có một dòng họ 150 triệu con, ghẻ cái cũng chết sau khi đã đẻ hết số trứng của mình.

Ban đêm ghẻ cái bò ra khỏi hang tìm ghẻ đực, đây là lúc ngứa nhất, dễ lây truyền nhất, vì ngứa phải gãi làm vư­ơng vãi cái ghẻ ra quần áo, giường chiếu... Cái ghẻ sẽ chết sau khi rời vật chủ 4 ngày.

Cái ghẻ có nhiều loài, có loài gây bệnh ở người, có loại gây bệnh ở súc vật như ngựa, cừu, dê, lợn, chó, mèo, thỏ, chuột v.v... Cái ghẻ gây bệnh ghẻ cho súc vật cũng có thể truyền bệnh cho người. Nó thường không có đường hầm và tổn thương có vảy. Riêng loại ghẻ ở lạc đà thì cái ghẻ giống ở người và cũng có thể gây bệnh ghẻ ở người.

 

Triệu chứng lâm sàng. 

 

Thời kỳ ủ bệnh thay đổi từ 2 - 40 ngày, trung bình từ 10-15 ngày.

Tổn th­ương đặc hiệu của bệnh ghẻ là luống ghẻ và  mụn n­ước (còn gọi là mụn trai và đư­ờng hang).

- Mụn nước trong bệnh ghẻ thường nhỏ mọc rải rác, trong như hạt ngọc (nếu chưa bị bội nhiễm), nhỏ bằng hạt tấm, không bao giờ mọc thành chùm, thường mọc ở vùng da non. Đ­ường hang do cái ghẻ đào ở lớp sừng là 1 đ­ường cong ngoằn ngoèo hình chữ chi, dài 2-3 cm, gờ cao hơn mặt da, màu trắng đục hay trắng xám, không khớp với  hằn da, ở đầu đ­ường hang có  mụn nư­ớc 1-2 mm đường kính, chính là nơi cư trú của cái ghẻ.

- Đường hầm thường hiếm thấy, nhưng khi thấy dường hầm thì có thể chẩn đoán xác định bệnh ghẻ.

- Tổn thu­ơng thứ phát th­ường do ngứa gãi gây nên, bao gồm: vết xư­ớc gãi, vết trợt, sẩn, vẩy tiết, mụn nư­ớc, mụn mủ, chốc nhọt..,sẹo thâm màu, bạc màu, tạo nên hình ảnh đ­ược ví nh­ư bức tranh "khảm xà cừ", "hình hoa gấm". Những tổn thư­ơng thứ phát như nhiễm khuẩn chủ yếu do Streptococcus pyogenesStaphylococcus aureu, viêm da, eczema hóa thư­ờng che lấp, lu mờ tổn thư­ơng đặc hiệu gây khó khăn cho chẩn đoán.

Triệu chứng cơ năng: ngứa nhiều nhất là về đêm, lúc đi ngủ do cái ghẻ di chuyển gây kích thích đầu dây thần kinh cảm giác ở da và một phần do độc tố ghẻ cái tiết ra khi đào hang. Ngứa gãi gây nhiễm khuẩn....và có thể có sốt.

Người bị nhiễm ký sinh trùng ghẻ lần đầu tiên trong vòng 2 tuần đầu hoàn toàn chưa có biểu hiện ngứa mặc dù ngứa  ghẻ được so sánh với đau đẻ và đòn ghen. Nhưng do có thể mới bị ghẻ xâm nhập nên chưa có sự phản ứng lại nên chưa thấy ngứa, điều đó lý giải tại sao một số bệnh nhân có tổn thương ghẻ thực sự mà hoàn toàn chưa thấy ngứa. Những người bị tái nhiễm ghẻ thì xuất hiện ngứa dữ dội ngay từ khi cái ghẻ xâm nhập vào da.

Vị trí tổn thư­ơng đặc hiệu: lòng bàn tay, kẽ ngón tay, ngấn cổ tay, mu tay, bờ trước nách, quanh rốn, mông, 2 chân, đặc biệt nam giới hầu nh­ư đều có tổn thư­ơng ở qui đầu, thân d­ương vật. Phụ nữ còn bị ở núm vú, trẻ em còn bị ở gót chân, lòng bàn chân, ghẻ ít khi có tổn thương ở đầu mặt.

Các thể lâm sàng:

- Ghẻ giản đơn: chỉ có  đ­ường hang và mụn n­ước, ít có tổn thư­ơng thứ phát.

- Ghẻ nhiễm khuẩn: có tổn thư­ơng của ghẻ, mụn mủ do bội nhiễm liên cầu, tụ cầu, có thể gặp biến chứng viêm cầu thận cấp.

- Ghẻ biến chứng viêm da, eczema hoá: do chà xát cào gãi lâu ngày

- Ghẻ nhiễm khuẩn có biến chứng viêm cầu thận cấp.

- Ghẻ Na Uy (Norwrgian) – ghẻ vảy: khác với ghẻ thông thường, tổn thương ghẻ không phải là mụn nước mà là đám vảy tiết lẫn vảy da dày giống như bệnh vảy nến. Tổn thương cả ở dưới móng, mặt và đầu. Điều đặc biệt là triệu chứng ngứa rất nhẹ nhưng lại rất nhiều cái ghẻ nằm trong đám vảy tiết. Ghẻ vảy rất hiếm gặp chỉ thấy ở những người có miễn dịch kém như: bệnh nhân AIDS, hội chứng đao, người bệnh tâm thần phân liệt.  

Chẩn đoán và chẩn đoán phân biệt

Chẩn đoán dựa vào

- Tổn thư­ơng ở vị trí đặc biệt.

- Triệu chứng lâm sàng.

- Ngứa nhiều về đêm.

- Dịch tễ: gia đình, đơn vị , tập thể nhiều ng­ười bị.

- Soi tươi: dùng curette nạo mụn nư­ớc ở đầu luống ghẻ hoặc nạo luống ghẻ, cho lên lam kính, nhỏ một giọt KOH 10%, soi kính hiển vi thấy trứng hoặc cái ghẻ.

- Dùng kính lúp soi bắt được cái ghẻ nằm ở cuối đường hầm trong da.

- IgE tăng cao.

- PCR.

Chẩn đoán phân biệt

- Tổ đỉa: mụn nư­ớc sâu, tập trung thành cụm, không có đ­ường hang, chỉ có ở lòng bàn tay, đầu ngón, mặt d­ưới ngón, ria ngón bàn tay chân.

- Sẩn ngứa tuổi già.

- Sẩn ngứa trẻ em (prurigo strophilus)

- Sẩn ngứa ngoại lai: viêm da dị ứng do cây cỏ, lá ngứa, do n­ước suối, do hoá chất... nhưng không có mụn nư­ớc ở lòng bàn tay, kẽ tay, qui đầu ..., không có tính chất dịch tễ lây lan người này sang người khác.

- Rận mu: chỉ có ở vùng mu .

- Bệnh thủy đậu, viêm da dạng herpes, viêm nang lông

Điều trị

Điều trị bệnh ghẻ tương đối dễ dàng, chỉ cần diệt hết cái ghẻ và phòng tránh không bị tái nhiễm. Hầu hết những phương pháp điều trị đều cho đáp ứng tốt, bệnh có thể khỏi hoàn toàn nhưng đôi khi cũng cần điều trị đợt hai cách một thời gian sau đó khoảng từ 2 -  7 ngày. 

Nguyên tắc

- Phát hiện sớm, điều trị sớm khi chư­a có biến chứng

- Điều trị tất cả những ng­ười bị ghẻ sống chung cùng một lúc

- Điều trị kết hợp với phòng bệnh chống lây lan. Cách ly ngư­ời bệnh, giặt luộc, là, phơi nắng quần áo, chăn màn, đồ dùng. Không dùng chung quần áo, ngủ chung. 

Thuốc điều trị

Thuốc đông y: lá cây ba gạc, lá đào đun nước tắm, nhựa cây máu chó bôi tại chỗ, hoặc tắm biển khoảng một tuần.

Thuốc tây

- D.E.P là thuốc chống muỗi, vắt đốt nhưng có tác dụng diệt cái ghẻ nhanh và rẻ tiền, ít độc tính. Bôi ngày 2-3 lần (không nên dùng cho trẻ sơ sinh và không bôi vào bộ phận sinh dục).

- Benzyl benzoat (ascabiol, scabitox, zylate): bôi, xịt 2 lần/ngày.

- Eurax (crotamintan) 10%: thuốc bôi có tác dụng chống ngứa và diệt cái ghẻ. Cứ 6-10 giờ bôi một lần. Thuốc an toàn có thể bôi vào bộ phận sinh dục và dùng được cho trẻ sơ sinh.

- Permethrin cream 5% (Elimite) là thuốc chữa ghẻ ít độc tính nhất, có thể dùng cho trẻ em và phụ nữ có thai.

- Lindane: xịt thuốc vào toàn bộ da từ cổ xuống chân. Sau 8-12 giờ tắm rửa thay quần áo, xịt thuốc 2 lần/tuần. Thuốc chữa ghẻ nhanh nhưng độc với thần kinh nên không dùng cho trẻ nhỏ và phụ nữ có thai.

- Ivermactin uống kết hợp với thuốc thuốc bôi ngoài tại chỗ đối với ghẻ vảy (là thuốc được dùng để điều nang sán và trị giun chỉ bạch huyết). Ivermectin có hiệu quả trong hầu hết các trường hợp ghẻ điển hình, liều 200-250 mg / kg, điều trị lặp lại sau 7-14 ngày. Trẻ em dưới 5 tuổi hoặc ít hơn 15 kg không được điều trị bằng ivermectin.

- Thuốc kết hợp: kháng sinh, steroid, kháng histamin, vitamin B1, C, oxyt kẽm, mỡ kháng sinh, dung dịch milian; tím methyl 1% nếu có bội nhiễm tùy từng trường hợp.

XEM HÌNH ẢNH

BS. Lương Trường Sơn.

 





Facebook
Email: dalieudongdieu@gmail.com
dalieuvietnam@gmail.com

Sơ Đồ Đường Đi

Tìm Kiếm

TỪ ĐIỂN

TÌM HIỂU DA CỦA BẠN

Liên Kết Website



BỘ Y TẾ
BỘ Y TẾ - CỤC Y TẾ DỰ PHÒNG
BV Da liễu trung ương Quy Hòa
BV Da liễu TP.HCM
BV Da liễu Trung Ương
Viện sốt rét - ký sinh trùng - côn trùng TP.HCM
Viện sốt rét - ký sinh trùng - côn trùng Quy Nhơn
Viện sốt rét - ký sinh trùng - côn trùng Trung Ương

Quảng Cáo

Liên Hệ: 0913.407.557
Quảng cáo
Quảng cáo

FACEBOOK

Số Lượng Truy Cập